Góc nhìn đầy đủ về cô lập xã hội

Góc nhìn đầy đủ về cô lập xã hội

Cô lập xã hội là ngăn một người hoặc một nhóm người tiếp cận hay tham gia vào những tình huống xã hội. Tình trạng này thường xuất hiện trong bối cảnh một cá nhân hoặc một nhóm bị quy kết là có những tính cách không phù hợp hay có đặc điểm được coi là không nổi bật. Hành động cô lập xã hội quan sát thấy được ở con người và những loài động vật có tính xã hội khác. Các nhà nghiên cứu đồng ý rằng cô lập xã hội đóng vai trò là một công cụ với tính năng cụ thể, và rằng sẽ cực kỳ khó chịu và gây tổn thương cho cá nhân hoặc nhóm người bị chối bỏ, không cho hòa nhập vào một nhóm cộng đồng nào đó.

Bối cảnh, tầm quan trọng và bằng chứng về cô lập xã hội.

Các nhà nghiên cứu cho rằng cô lập xã hội có 4 chức năng chính. Chức năng đầu tiên, cô lập xã hội là một cách để thực thi những quy tắc xã hội. Các xã hội vận hành dựa trên những quy tắc áp dụng cho nhiều tình huống khác nhau, và nếu thành viên vi phạm những quy tắc này, họ thường sẽ bị cô lập khỏi các hoạt động của xã hội. Những người vi phạm luật hình sự thường bị cách ly khỏi xã hội. Trẻ nào liên tục ngó lơ luật chơi thường sẽ bị loại ra khỏi những lần chơi kế tiếp.

(Trẻ bị cô lập – Ảnh minh họa)

Chức năng thứ hai là để phân phối các nguồn lực cho các thành viên nhóm. Hầu hết các nguồn cung nguồn lực thường hạn chế nên nhóm phải quyết định thành viên nào sẽ được nhận những nguồn lực này. Nếu thành viên nào bị số đông cho là không phù hợp trong hoạt động trao đổi xã hội thì đại đa số các thành viên có thể quyết định loại những thành viên đó ra khỏi các hoạt động xã hội và từ chối không phân phát tài nguyên cho họ. Ví dụ, điều này thường xuất hiện ở trẻ em, khi những trẻ nhỏ hơn hoặc ít hợp tác hơn thường bị loại ra khỏi các trò vận động. Nó cũng xuất hiện ở cấp độ xã hội rộng lớn hơn trong trường hợp luật pháp ban hành gây cản trở các nhóm nhất định trong xã hội tiếp nhận lợi ích từ các chương trình của chính phủ.

Chức năng thứ ba có liên quan đến bản dạng nhóm, cái tạo ra lý do bào chữa cho sự phân biệt đối xử. Nhu cầu thuộc về một nơi nào đó là một nhu cầu cơ bản và quan trọng của con người; bản dạng nhóm thường là một cách để hoàn thành nhu cầu này. Các nhóm được phân loại bởi bản dạng nhóm dựa trên những yếu tố sinh học (như chủng tộc, giới tính), các yếu tố cấu thành xã hội (như giai cấp xã hội), hoặc niềm tin và ý kiến cá nhân (như tôn giáo, chính trị). Những phân nhóm này thường đưa đến trạng thái tâm lý “Chúng ta và Họ”, đóng vai trò là một cách để thống nhất bản dạng nhóm, và giữ những nhóm không tương thích ở ngoài rìa. Trẻ em thướng có xu hướng tránh những thành viên thuộc giới tính khác, nhưng lại chơi chung với những thành viên cùng giới tính. Sự cô lập có thể là bước đầu tiên hướng tới sự phân biệt đối xử, từ đây đưa đến sự chia tách và thái độ hung hăng ở quy mô lớn hơn.

Chức năng thứ tư là làm gia tăng sức mạnh và sự gắn kết chặt chẽ của nhóm. Cô lập xã hội được sử dụng để giảm tính dễ bị tổn thương hoặc yếu kém trong nhóm. Trong xã hội động vật, thành viên nào yếu hoặc đặt nhóm vào tình thế nguy hiểm sẽ bị loại, từ đó củng cố sức mạnh cho nhóm. Hành động cô lập có thể tăng cường sự gắn kết và sức mạnh của nhóm. Hành động cô lập cũng mang đến một cảm nhận tức thì về sức mạnh, sự kiểm soát và tính gắn kết chặt chẽ.

Ý nghĩa của cô lập xã hội 
Cô lập xã hội (và cả những hiện tượng có liên quan như chối bỏ và tẩy chay) là một công cụ xã hội tổng quát và mạnh mẽ. Những người sử dụng công cụ này nhận được lợi ích ngay lập tức. Với những người bị áp dụng công cụ này, đôi lúc nó có thể khiến họ phải sửa đổi hành vi để có thể được tái hòa nhập vào cộng đồng nhưng thường thì việc bị cô lập rất đau khổ, có thể đưa đến trầm cảm và, đôi lúc là thái độ hành vi hung hăng. Các nhà nghiên cứu đang tích cực tìm hiểu những con đường này diễn ra trong điều kiện như thế nào, và khi nào cô lập xã hội trở trở nên có hại cho một nhóm lớn.
—————-
>>Tham khảo. Reference:
Williams, K. D., Forgas, J. P., & von Hippel, W. (Eds.). (2005). The social outcast: Ostracism, social exclusion, rejection, and bullying. New York: Psychology Press.
>>Nguồn: Psychology.iresearchnet.com

 

 

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *