Tổng quan về các học thuyết tâm lý hiện đại
(Ảnh minh họa)
Lấy ví dụ về chủ đề gây hấn. Ai tập trung vào thuyết sinh học sẽ xem xét sự tác động của não và hệ thần kinh lên hành vi gây hấn. Ai nhấn mạnh thuyết hành vi sẽ đào sâu vào việc các tác nhân từ môi trường củng cố các hành động gây hấn như thế nào. Một nhà tâm lý học đứng trên góc nhìn giao thoa văn hóa sẽ có thể xem xét sự ảnh hưởng của văn hóa và xã hội, góp phần hình thành các hành vi gây hấn và bạo lực đó.
Dưới dây chỉ là một số các học thuyết chính trong tâm lý học hiện đại.
Thuyết phân tâm học
Thuyết tâm động học khởi nguồn từ các nghiên cứu của Sigmund Freud. Quan điểm này nhấn mạnh vai trò của trạng thái vô thức, các trải nghiệm thời thơ ấu, và các mối quan hệ liên nhân, dùng chúng để giải thích các hành vi của con người và điều trị các bệnh nhân tâm thần.
Thuyết phân tâm trở thành một trong những học thuyết đầu tiên của tâm lý học, chịu ảnh hưởng từ các nghiên cứu của Freud. Freud xem tâm trí được hình thành từ 3 yếu tố chính: Cái nó hay còn gọi là bản năng, cái tôi hay còn gọi là bản ngã và cái siêu tôi hay còn gọi là siêu bản ngã. Bản năng là cái thể hiện tất cả những ham muốn nguyên thủy và vô thức nhất. Bản ngã là sinh ra để giải quyết những nhu cầu của thế giới thực tại. Cái siêu tôi là cái cuối cùng thể hiện tất cả những yếu tố nội tâm về đạo đức, lý tưởng, về chuẩn mực lối sống của con người.
Thuyết hành vi
Tâm lý học hành vi là một lĩnh vực tập trung vào các hành vi thu nhận được sau quá trình quan sát và học hỏi. Thuyết hành vi có sự khác biệt so với các học thuyết khác, thay vì tập trung vào trạng trái nội tâm con người, nó chỉ chú trọng đến các hành vi bên ngoài, có thể quan sát được.
Trường phái này chỉ thống trị tâm lý học trong những năm đầu thế kỷ XX, những năm 1950 trở đi nó bắt đầu suy yếu. Ngày nay, thuyết hành vi vẫn tiếp tục nghiên quá trình học tập và củng cố của các hành vi. Các nguyên lý trong thuyết này thường được áp dụng trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe tâm thần, các nhà trị liệu và tư vấn viên sẽ sử dụng các kỹ thuật này để lý giải và điều trị nhiều loại bệnh lý.
Thuyết nhận thức
Trong suốt những năm 1960, một học thuyết mới với tên gọi thuyết nhận thức bắt đầu trở nên phổ biến. Đây là lĩnh vực tâm lý học tập trung vào các quá trình diễn ra trong hệ thần kinh như trí nhớ, tư duy, giải quyết vấn đề, ngôn ngữ và ra quyết định. Chịu ảnh hưởng bởi Jean Piaget và Albert Bandura, học thuyết này đã phát triển mạnh mẽ trong các thập kỷ gần đây.
Các nhà tâm lý học nhận thức, thường sử dụng các mô hình xử lý thông tin, so sánh tâm trí con người như một cái máy tính để khái niệm hóa quá trình thu nhận, xử lý, lưu trữ và sử dụng thông tin.
Thuyết sinh học
Nghiên cứu sinh lý đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của tâm lý học, giúp nó trở thành một ngành học tách biệt. Ngày nay, học thuyết này có tên gọi là tâm lý sinh học. Nó còn có một số tên gọi khác như sinh tâm lý học hoặc tâm lý sinh lý học, tập trung đào sâu vào nền tảng thể chất và sinh học của hành vi.
Các nhà nghiên cứu có thể tiến hành các nghiên cứu về sự ảnh hưởng của đặc tính di truyền lên các hành vi hoặc sự tác động của các tổn thương ở một số vùng nhất định của não bộ đến hành vi và tính cách. Hệ thần kinh, gen di truyền, não bộ, hệ miễn dịch và hệ nội tiết chỉ là một số đối tượng mà ngành này hướng đến.
Học thuyết này lớn mạnh và phổ biến rộng trong suốt những thập kỷ trước, đặc biệt là với sự tiến bộ trong việc khám phá và tìm hiểu não bộ con người và hệ thần kinh. Các công cụ như chụp MRI hay chụp PET cho phép các nhà nghiên cứu tìm hiểu não bộ dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Các nhà khoa học giờ có thể quan sát các hậu quả của các chấn thương não bộ, ma túy và các căn bệnh, việc không đơn giản trong quá khứ.
Thuyết giao thoa văn hóa
Tâm lý học về giao thoa văn hóa là một học thuyết tương đối mới, chỉ phổ biến mạnh khoảng 20 năm trở lại đây. Những nhà tâm lý học và nhà nghiên cứu xem xét hành vi thông qua góc nhìn của các nền văn hóa khác nhau. Bằng việc mổ xẻ các điểm khác biệt này, ta có thể tìm hiểu cách thức mà mỗi nền văn hóa ảnh hưởng đến suy nghĩ và hành vi của chúng ta.
Ví dụ, các nhà nghiên cứu đã nghiên cứu sự khác biệt của các hành vi ở các xã hội theo chủ nghĩa cá nhân và các xã hội theo chủ nghĩa tập thể. Trong những nền văn hóa cá nhân, như Hoa Kỳ, người ta có xu hướng ít cố gắng hơn khi ở trong một tập thể, một hiện tượng có tên gọi là “tính lười biếng xã hội”. Tuy nhiên, trong những nền văn hóa tập thể như Trung Quốc thì người ta có xu hướng nỗ lực chăm chỉ hơn khi ở trong một nhóm.
Thuyết tiến hóa
Tâm lý học tiến hóa tập trung nghiên cứu sự ảnh hưởng của quá trình tiến hóa lên các thay đổi về sinh lý. Các nhà khoa học sử dụng những nguyên lý cơ bản của thuyết tiến hóa, đặc biệt là chọn lọc tự nhiên, áp dụng nó để giải thích các hiện tượng tâm lý. Học thuyết này cho rằng các quá trình tâm thần diễn ra nhằm phục vụ mục đích tiến hóa – giúp hỗ trợ sinh tồn và sinh sản.
Thuyết nhân văn
Trong suốt những năm 1950, trường phái có tên tâm lý học nhân văn xuất hiện. Chịu ảnh hưởng từ nhà nghiên cứu khoa học nhân văn nổi tiếng Carl Rogers và Abraham Maslow, học thuyết này nhấn mạnh vai trò của động lực đối với quá trình tư duy và hành vi.
Các khái niệm như “Tự khẳng định bản thân” là một bộ phận quan trọng của học thuyết này. Những người theo học thuyết này tập trung nghiên cứu các phương thức tác động vào sự sinh trưởng, thay đổi và phát triển các tiềm năng tính cách của con người. Tâm lý học tích cực là một ngành khá mới trong tâm lý học có gốc rễ từ học thuyết nhân văn.
Kết luận
Có rất nhiều cách để tìm hiểu, khám phá suy nghĩ và hành vi của con người. Các thuyết tâm lý học hiện đại đã giúp chúng ta tiếp cận các vấn để khác nhau, tìm ra những phương thức mới để giải thích, dự đoán hành vi và tìm kiếm các cách tiếp cận điều trị mới.
————–
>> Theo LINDANGA.COM